Nhật Bản là nước có mức tiêu thụ thủy sản theo đầu người cao nhất thế giới. Ngành thủy sản nước này có vai trò lịch sử và đang tiếp tục mang lại sinh kế cho hàng nghìn làng chài ven biển.
1. Sản lượng khai thác giảm
Khai thác hải sản là lĩnh vực quan trọng nhất của ngành thủy sản Nhật Bản. FAO chia khai thác hải sản của Nhật Bản thành 3 nhóm: khai thác xa bờ, chủ yếu hoạt động ở các vùng biển xa và tại các vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác theo hiệp định song phương; khai thác ngoài khơi, chủ yếu tại vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản; và khai thác ven bờ.
2. Những diễn biến mới
Bất chấp những thay đổi trong ngành thủy sản và thị hiếu tiêu dùng thực phẩm, năm 2005, giá trị nhập khẩu thủy sản (NKTS) của Nhật Bản đạt 1,67 nghìn tỷ yên, tăng gần 2% so với 1,63 nghìn tỷ yên năm 2004, nhưng khối lượng giảm 4% so với 3,34 triệu tấn năm 2004.
Tuy nhiên, Nhật Bản tiếp tục nhập khẩu (NK) ngày càng nhiều sản phẩm thủy sản chế biến và sơ chế nhằm đáp ứng nhu cầu gia tăng. Năm 2005, NK các sản phẩm thủy sản chế biến đạt trên 400.000 tấn, trị giá 2,43 tỷ USD, chiếm gần 17% tổng giá trị NK.
Tôm tiếp tục là sản phẩm ưa thích của người Nhật. Mặc dù là thị trường tôm lớn thứ 2 thế giới sau Mỹ, nhưng tiêu thụ tôm theo đầu người của Nhật đạt hơn 2,5 kg, trong khi Mỹ 1,9 kg.
Năm 2005, NKTS giảm nhẹ đã ảnh hưởng xấu đến ngành tôm, nhất là sản phẩm tôm nguyên con đông lạnh, do thị trường tôm còn vỏ đông block biến động thất thưởng suốt 10 năm qua. Tuy nhiên, nhu cầu sản phẩm tôm chín và bao bột (kể cả tôm sushi) và các sản phẩm tôm khác tiếp tục ổn đinh, thậm chí tăng.
Năm 2005, NK tôm các loại của Nhật Bản đạt 294.658 tấn, trị giá 2,25 tỷ USD, giảm 2,3% về khối lượng so với năm 2004 do NK tôm nguyên con đông lạnh giảm. Tuy vậy, tôm nguyên con đông lạnh vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giá trị NK tôm với 1,79 tỷ USD.
Giá trị NK tôm chế biến, kể cả tôm bao bột, tempura, sushi, ebi, đạt 428 triệu USD.
Tôm nhiệt đới chiếm tỷ trọng chính trong nguồn cung cấp tôm, chủ yếu từ các nước Châu Á như Việt Nam, Inđônêxia, Ấn Ðộ, Trung Quốc và Thái Lan.
Gần 98% sản phẩm tôm GTGT NK vào Nhật có nguồn gốc từ các nước Châu Á: Thái Lan (40%), Trung Quốc (23%), Việt Nam (17%) và Inđônêxia (17%).
Nguồn cung cấp tôm nguyên con đông lạnh không ổn định với thị phần liên tục giảm. Mặc dù từ năm 2004, thị trường dần chấp nhận tôm chân trắng nuôi và Trung Quốc là nước cung cấp chủ yếu tôm chân trắng cỡ nhỏ, nhưng tôm sú vẫn là sản phẩm được ưa chuộng với nguồn cung cấp chính là Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia và Trung Quốc.
3. Không chỉ là nước nhập khẩu
NK thủy sản của Nhật Bản chiếm 14% khối lượng NKTS thế giới. Chính vì vậy, không ai nghĩ Nhật Bản có thể là nước XKTS. Thực tế, cho đến gần đây, người Nhật vẫn không tự nhận họ là nước XKTS.
Tuy nhiên, 23 quận ở Nhật đã thành lập Hội đồng Xúc tiến XK Thương hiệu Thủy sản, Nông sản và Lâm sản Nhật Bản vào năm 2003 nhằm tăng cường XK các sản phẩm nông-lâm-thủy sản của nước này. Ðầu năm 2004, phạm vi của Hội đồng được mở rộng ra 40 quận và đã tạo động lực cho hoạt động XKTS.
Từ năm tài khoá 2004, Bộ Nông-Lâm-Ngư nghiệp Nhật Bản đã tăng ngân sách cho hoạt động xúc tiến XK nhằm tiến hành khảo sát hệ thống ngoại thương, cử các phái đoàn phát triển thị trường ra nước ngoài và hỗ trợ xúc tiến thương hiệu Nhật Bản của các nhóm nhà sản xuất.
Năm 2005, Nhật Bản đẩy mạnh hơn các biện pháp xúc tiến bán hàng dài hạn. Ví dụ, Hội đồng Xúc tiến XK Nhật Bản-Trung Quốc đã khảo sát thị trường Trung Quốc và phát hành tờ rơi bằng tiếng Trung nhằm giới thiệu các món ăn từ cá thu.
Các tổ chức thủy sản Nhật Bản hy vọng tiếp tục các nỗ lực nhằm phát triển hơn nữa thị trường XKTS.
Mọi chi tiết về XKLĐ Nhật Bản vui lòng liên hệ:
Trung tâm tư vấn XKLĐ Hữu Nghị
Địa chỉ : Tầng 11, Số 152 Phó Đức Chính, Phường Trúc Bạch, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại : 04.3926.0666
Hotline : 098.387.8283
Advertisement